CHÀO MỪNG ĐẾN VỚI WEBSITE KHOA VĂN HÓA - THÔNG TIN TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA, THỂ THAO, DU LỊCH THANH HÓA

THÀNH NHÀ HỒ - SẮC MÀU HUYỀN THOẠI

Đăng lúc: 03/11/2022 (GMT+7)
100%

Khi đề cập đến Thành Nhà Hồ, người ta thường quan tâm những bước tường thành bằng đá kỳ vĩ với những giá trị nổi bật toàn cầu. Song, không chỉ có vậy, tòa thành "vô tiền khoáng hậu" này còn ẩn chứa nhiều giá trị lịch sử - văn hóa độc đáo, trong đó các huyền thoại là một yếu tố không thể không nhắc tới, bởi chúng vừa là sản phẩm, vừa là yếu tố bồi đắp thêm sự kỳ vĩ của tòa thành.

Thành Nhà Hồ tọa lạc ở một khu đất bằng phẳng, được che chắn kỹ càng một cách tự nhiên bởi dãy núi trùng điệp ở phía Bắc, hai dòng sông Mã và sông Bưởi bao bọc hai mặt Đông, Tây. Thành lại nằm bên cạnh đường thượng đạo ở miền Tây Thanh Hóa. Địa thế này tránh được thế trống trải khó phòng thủ, lại thuận tiện giao thông thủy bộ ngược – xuôi và ra Bắc, vào Nam. Vì vậy, vùng đất An Tôn vừa hiểm yếu, vừa có điều kiện phát triển và mở rộng kinh thành. Về phong thủy, có núi Tượng Sơn ở phía Bắc làm hậu chẩm, núi Đốn Sơn ở phía Nam làm tiền án, hai ngọn Hắc Khuyển ở phía Đông và An Tôn ở phía Tây tạo thành thế tay ngai, sông Mã và sông Bưởi vây quanh, hợp lưu ở ngã ba Cầu Công tạo nên thế thủy tụ thành minh đường. Theo truyền thuyết, về phong thủy, Hồ Quý Ly cho là đất "thạch bàn long xà, lục thập niên ký" (đất thế rồng chầu rắn cuốn, vững như bàn thạch, có thể ở được 60 năm). Thế nhưng Hồ Hán Thương (con trai thứ 2), lại tâu với Hồ Quý Ly rằng: "Thưa cha con đã xem kỹ đất này, đúng là đất rồng chầu, rắn cuốn nhưng hãy còn non, nên mới chỉ là "long xà ẩm thủy, lục niên ký chủ", chỉ ở được trên dưới 6 năm thôi". Triều thần khi ấy là Nguyễn Nhữ Thuyết cho rằng: An Tôn đất đai chật hẹp, hẻo lánh, ở nơi đầu non cuối nước, hợp với loạn mà không hợp với trị. Cho dù dựa vào thế hiểm trở thì đời xưa đã có câu: "Cốt ở đức chứ không cốt ở hiểm" .

Việc xây dựng thành được tiến hành một cách gấp rút, Đại Việt sử ký toàn thư cho biết Thành Nhà Hồ được xây dựng chỉ trong 3 tháng. Có nhà nghiên cứu khi phân tích sự đồ sộ của tòa thành với kỹ thuật của thế kỷ XIV, cùng việc tìm hiểu thêm sử liệu, cho rằng công trình ít nhất được xây dựng trong một năm rưỡi. Dù 3 tháng hay một năm rưỡi đều là khoảng thời gian kỳ tích để xây dựng một tòa thành đá kiên cố, to lớn như Thành Nhà Hồ.

Sự khẩn trương trong việc xây dựng thành còn lưu lại trong nhiều truyền thuyết dân gian. Có truyện kể rằng, cứ sau một ngày, người ta nhặt được hàng rổ ngón chân, ngón tay người xây thành do mệt mỏi, gấp gáp mà gặp tai nạn. Đoạn hào thành thông ra sông Mã được Hồ Quý Ly ra lệnh buộc phải hoàn tất trong một đêm. Do làm trong đêm, lại vội vàng nên đoạn này đã bị đào lệch về phía Bắc khoảng 800m (đoạn đào nhầm gọi là Mau Rẹ). Hồ Quý Ly rất tức giận đã ra lệnh chém tất cả những người đào nhầm đoạn hào đó.

Việc xây thành còn gắn với câu chuyện bi thương: nàng Bình Khương là vợ của Cống Sinh (Trần Công Sỹ), quan đốc công trông coi việc xây đoạn tường thành phía Đông. Do nền móng yếu, đoạn thành gần cửa Đông cứ xây xong được vài đêm lại sụp đổ. Biết chuyện, Hồ Quý Ly rất tức giận và cho rằng Cống Sinh có ý làm phản nên ra lệnh chôn sống Cống Sinh dưới chân thành để thị uy quân sĩ. Trước cái chết oan khuất của chồng, nàng Bình Khương tìm đến công trường xây thành kêu oan, rồi nàng đập đầu vào tảng đá xây thành cho đến chết. Tảng đá nàng Bình Khương đập đầu in rõ hình vầng trán và hai bàn tay của nàng hiện được đưa vào thờ tại ngôi đền phía Đông thành.

Dân làng Đông Môn cũng bị phạt bằng cách tịch thu hết lương thực, trâu bò, lợn, gà trong làng làm thức ăn cho quân lính xây thành. Sắp Tết, không còn gì ăn, dân làng đành ra đồng đào chuột về giết thịt để ăn Tết. Về sau thành lệ, đến giáp Tết, người dân Đông Môn lại ra đồng đào chuột về ăn để tưởng nhớ về sự gian khổ khi xưa.

Sự vĩ đại và thời gian xây dựng nhanh chóng của tòa thành khiến người ta không lý giải được, có khi viện đến những thế lực siêu nhiên. Một câu chuyện dân gian địa phương còn lưu truyền: thủa đó Hồ Quý Ly đã bắt dân nộp giấy bản để xây thành. Ban ngày thấy có đoạn thành dán bằng giấy, qua đêm, giấy đã biến thành đá, như thể họ Hồ đã dùng phép thuật để xây thành.

Để xây dựng tường thành cần một khối lượng đất, đá khổng lồ, nhiều khối đá nặng trên 20 tấn. Việc đào, đắp, xây dựng một khối lượng lớn đất đá trong một thời gian ngắn đã làm cho nhiều nhà nghiên cứu kinh ngạc. Học giả L.Bezacier khi nghiên cứu về thành Tây Đô đã từng mệnh danh người An Nam là những người "đào đất khổng lồ". Theo truyền thuyết dân gian, Hồ Quý Ly còn cho xây dựng con đường Cống Đá để vận chuyển vật liệu từ sông Mã vào xây dựng thành. Dấu tích của con đường này được nhận thấy bằng việc phát hiện các khối đá lớn dùng để lát đường trên con đường từ cuối thôn Tây Giai tới thôn Thọ Đồn ở phía Tây thành. Các vật liệu được chở từ Thăng Long về chắc hẳn cũng được vận chuyển trên con đường này.

Ở khoảng trung tâm tòa thành, hiện còn lại đôi rồng đá, có thể là đôi rồng thành bậc của một kiến trúc quan trọng trong thành, nay đã bị dịch chuyển khỏi vị trí ban đầu. Rồng được tạc khối tròn, dáng lượn hình sin 7 khúc, dài 3,8m, cao đến đầu 0,95m, thân dày 0,35m, phong cách tạo khối căng đầy, khỏe mập. Đây là sản phẩm mỹ thuật đặc trưng thời Trần rất quý hiếm còn lại ở Thanh Hóa. Đây cũng là cặp rồng kiến trúc Hoàng cung sớm nhất của Việt Nam được phát hiện cho đến nay. Điểm đặc biệt là đôi rồng bị mất đầu. Chưa có cách giải thích thỏa đáng hiện tượng này, nhưng trong dân gian vẫn lưu truyền chuyện kể, sau khi thành nhà Hồ thất thủ, năm nào làng Tây Giai (phía cổng tây thành nhà Hồ) cũng xảy ra hỏa hoạn. Có ông thầy giỏi địa lý đi qua nói rằng làng bị cháy là do đôi rồng đá trong Hoàng thành quay đầu vào làng gây họa. Vì vậy, dân làng Tây Giai đã chặt đầu đôi rồng rồi chôn lấp trong thành. Mãi đến năm 1938, khi người Pháp cho làm con đường chạy qua thành, mới làm phát lộ đôi rồng đá này.

Ngoài các kiến trúc được sử liệu thời Nguyễn nhắc tới, trong thành có núi Thọ Kỳ và Hồ Dục Tượng. Núi nay không còn thấy dấu vết. Bên cạnh đó vẫn còn dấu tích các hồ Dục Thúy, hồ Bơi Chải, hồ Bán Nguyệt, hồ Dục Tượng.

Đã hơn 600 năm, Thành Nhà Hồ vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt. Có thể coi đây là một hiện tượng đột khởi, vô tiền khoáng hậu trong lịch sử kiến trúc xây dựng thành lũy, kinh đô ở Việt Nam, Đông Á và Đông Nam Á trong giai đoạn cuối thế kỷ XIV, đầu thế kỷ XV. Tuy nhiên, nhà Hồ đã không xây được tòa thành vững chắc nhất là "lòng dân". Thiếu sự ủng hộ của nhân dân nên triều đại này đã nhanh chóng thất thủ trước sự xâm lược của quân Minh. Đây là một bài học lớn trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc./.

 

 

Chú thích ảnh:

1-Cổng Nam TNH: Cổng Nam Thành Nhà Hồ, Ảnh: Nguyễn Văn Long

2-Đền Bình Khương: Đền thờ nàng Bình Khương, Ảnh: Nguyễn Văn Long

3-Đá nàng Bình Khương: Phiến đá in dấu nàng Bình Khương, Ảnh: Nguyễn Văn Long

4-Rồng đá Thành Nhà Hồ: Rồng đá Thành Nhà Hồ, Ảnh: Nguyễn Văn Long

 

 

 

Tác giả: TS. Lê Thị Thảo